NTT: Nhà giáo, Nhà nghiên cứu phê bình văn học Thái Doãn Hiểu vừa rời bệnh viện sau một thời gian dài điều trị. Chuẩn bị bước vào tuổi thất thập, lại bị con bệnh dày vò, nhưng sức viết của anh thật kỳ lạ. Anh vừa gửi cho NTT bài viết dài gần 7 ngàn từ, viết về những trăn trở nhức nhối của mình về “Thật – giả” trong VHNT – một vấn đề muôn thuở nhưng lại rất nóng trong xã hội ta ngày nay. Xin cám ơn anh và trân trọng giới thiệu cùng bạn.
THẬT – GIẢ TRONG NGHỆ THUẬT !
THÁI DOÃN HIỂU
Chúng ta đang sống trong một thế giới ồn ào và bụi bặm. Giữa
cái nhá nhem của lịch sử, mọi vật đều chới với trong ảo giác: đen -
trắng lẫn lộn, thật – giả bất phân, thiện – ác đối đầu, ông – thằng đổi
ngôi. Nhận chân ra được sự thật không phải dễ dàng. Làm
sao để phân biệt chúng không phải là không làm được. Lương tri lương
năng của Con Người sẽ mách bảo cho chúng ta minh định được chánh tà,
đúng sai, tốt xấu.
Với tất cả lòng yêu mến, tôi xin tặng các anh chị em nhà văn
nhà báo thiên phiếm đàm này nhằm gợi cho các bạn một phương pháp luận
khi cầm bút, tỉnh táo đề phòng ăn phải cháo lú để thận trọng với chân
lý, bởi nó là điều kiện hàng đầu trong tiêu chí chân-thiện-mỹ
của người làm nghệ thuật. Xin hãy nói và viết Sự Thật, đó là bí quyết
của thuật hùng biện, là uy quyền tối đa của đạo lý, là la bàn của nghệ
thuật và cuộc sống.
&
Một lần, lựa lúc vui vẻ thân mật, tôi hỏi ông lão láng giềng người
Hoa làm nghề bán chạppô trên Chợ Lớn ngụ dưới tòa lầu nhà tôi:
- Ông là người Tàu, lại ham đọc sách báo, tôi xin mạn phép hỏi ông : Tào Tháo là người thế nào ?
- Tiên sanh hỏi chi lạ vzậy ? Tào Tháo thì ai còn lạ gì. Hắn
là một kẻ gian hùng thời loạn, một tay đa nghi kinh điển, tàn bạo thẳng
tay giết người như ngóe không biết kinh.
- Ông lầm rồi ! Oan cho đồng bào của ông lắm đó ?
- Oan cái nỗi gì ? Oan ở chỗ nào ? – Ông ta tròn xoe mắt ngạc nhiên.
- Trong đời thực, Tào Tháo là một bậc đại trí, đại nhân, đại dũng, một nhà thơ có tiếng, trưởng tràng nhóm Văn học Kiến An thời Tam quốc.
- Trời ! Ông thầy mò đâu ra chuyện động trời đó ? Lấy gì làm căn cứ ?
- Những tài liệu khảo cổ học đã công bố của văn hào Quách Mạt Nhược về nhân vật lịch sử này kể cả vở kinh kịch Thái Văn Cơ đã từng được dịch ra tiếng Việt.
Tôi kể cho ông nghe gốc ngọn những tài liệu ấy.
- Thế kia đấy. Thế mà sách vở chép hành trạng Tào Thừa tướng
rành rành ra đó. Tiên sách không đọc sách, không xem phim truyền hình Tam quốc diễn nghĩa của La đại nhân sao ?
- La đại nhân của ông là một gã bịp đại tài. Ông ta thuộc phe
được hưởng xái lộc nhà Hán. Viết dã sử trong thời buổi quân Nguyên Mông
thống trị Trung Quốc, và dưới ánh sáng của tư tưởng bảo hoàng, La Quán
Trung muốn đề cao tư tưởng Hán tộc nên những gì ở chiến tuyến bên kia –
phía nhà Ngụy là ông ta nhúng bút vào hắc ín sổ toẹt ráo, bôi đen sì từ
đầu đến chân làm méo mó cả lịch sử. Và, dĩ nhiên ông ta đã tô son trát
phấn cho nhà Thục cùng các nhân vật Lưu – Quan – Trương, Chư Cát Lượng,
nói vô phép – kể từ mùi thơm của cái rắm !
- À ta thế ! Cái gốc là do tư tưởng chính thống chi phối. Vậy
xin hỏi ông thầy – Ông ta quay ra công kích tôi – Các tác giả Ngô gia
Văn phái khi viết Hoàng Lê nhất thống chí phải chăng là để bảo hoàng ? Bảo hoàng sao lại ca ngợi “giặc” Tây Sơn Nguyễn Huệ viết nên những trang anh hùng ca như đoạn Quang Trung đại phá quân Thanh mà mấy đứa nhỏ nhà tôi đang học trong sách giáo khoa ?
- Á, a, trâu đồng nào ăn cỏ đồng nấy. Đúng, mấy ông cựu thần
nhà Lê này viết sách là để bảo vệ quyền lợi của vua họ. Ông không thấy
sao, cái nhan đề sách Hoàng Lê nhất thống chí có nghĩa là kể
chuyện vua Lê thống nhất đất nước đó sao ? Nhưng sức mạnh của đoàn quân
áo vải Tây Sơn quét sách như quét lá 30 vạn quân Tôn Sĩ Nghị đã sai
khiến được ngòi bút bảo hoàng của các tác giả. Kể công bằng mà nói thì
mấy ông tác giả họ Ngô còn chút lương tri lương năng hơn là La đại nhân
của ông ?
- Trời đất quỷ thần ơi. Thế ra lão La phù thủy không chỉ lừa một mình ngộ mà lừa được toàn thế giới suốt 600 năm nay !
- Vâng, tội nghiệp cho Tào Mạnh Đức bị bêu riếu suốt 6 thế kỷ chỉ vì cái lão hủ nho gàn quải “ủng Lưu phản Tào” này.
- Nhưng… thế sao Tam quốc vẫn sống trường tồn trong lòng bạn đọc thế giới ? Tiên sanh nghĩ sao ?
- Cái đó lại là chuyện khác. Trong nghệ thuật không phải
chuyện đúng sai mà là vấn đề thật giả. Chân lý nghệ thuật khác rất xa
với chân lý cuộc đời.
Chân lý ở đây nằm trong sự nhầm lẫn lịch sử cố ý !
*
Tháng 4- 1991, đồng chí Tôđo Rípcốp khai trước tòa rằng ông không
phải là tác giả của hơn 30 tác phẩm nổi tiếng đã được ấn hành ở Bungari
trong khoảng thời gian ông ấy cầm quyền nước này. Ông ta còn thật thà
nói thêm rằng có nhiều cuốn trong đó thậm chí ông cũng chưa được đọc !
(Tin của Đài BBC phát tối 28-12-1991)
Chân lý ở đây nằm trong quyền lực và thói hám hanh !
*
Nhà văn Vũ Trọng Phụng “ông vua phóng sự đất Bắc” có thời bị người ta đạp xuống tận đáy bùn đen, gán cho đủ thứ tội: “Bàn đen”, “trụy lạc”, “khiêu dâm”,”tự nhiên chủ nghĩa”, “Khinh miệt quần chúng”, và “Tờrốtkít”…
Rồi, một thời gian ngắn sau, chính cái ông giáo sư viết hàng loạt bài
hay ho để thóa mạ Vũ lại đưa tay ra móc Vũ ra khỏi bùn, tắm táp cho Vũ
sạch sẽ, đem Vũ đặt lên bàn thờ, vận comlê đeo cà vạt chỉnh tề sì sụp
quỳ lạy Vũ. Thảo nào, con gái Vũ – chị Nguyễn Thị Hằng đã thắp hương
trước di ảnh cha và chồng sách Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, thảng thốt reo lên “Bố ơi, bố sống lại rồi”
Không hiểu phép mầu nào đã cải tử hoàn sinh cho kiếp nhà văn của Vũ Trọng Phụng và nhân cách cầm bút của ông giáo sư kia ?
Chân lý ở đây tùy thuộc vào thời tiết chính trị và thói xu thời nịnh thế của kẻ văn nô cơ hội !
*
Điêu Thuyền là một liệt nữ xả thân cứu nước. Thế nhưng, trong dân
gian hễ cứ thấy đàn bà con gái không đứng đắn là mắng mỏ “Đồ Điêu
Thuyền”, “Đĩ thõa như con Điêu Thuyền”.
Tội báo oan gia chưa ? Một người đồn sai, muôn người đồn thực.
Chân Lý ở đây do nhận thức và quan niệm hủ lậu chi phối !
*
Không riêng gì ở phương Đông, phương Tây cũng có cảnh “hết chim bẻ ná, hết muông giết chó”.
Sau khi lên ngôi hoàng đế, Napôlêông Bônapáctơ ra lệnh giết bá tước
P.. Cái chết oan khuất của vị đệ nhất công thần này đã xuốc lên cả một
làn sóng ngầm phản đối. Có ba đoàn đến xin yết kiến nhà vua.
Đi đầu là phái đoàn của nguyên lão nước Pháp. Một trưởng lão chất vấn :
- Muôn tâu thánh thượng, vì sao ngài lại giết bá tước P. là người đã giúp rập cho ngài làm nên nghiệp đế ?
- Ta giết bá tước P. là vì tương lai của nước Pháp – Napôlêông lạnh lùng gằn giọng.
Các nguyên lão lui. Phái đoàn các tướng lãnh vào. Một võ tướng uy nghi bước tới, tâu :
- Vì sao Hoàng thượng lại giết một danh tướng đã từng lập nên
nhiều chiến tích hiển hách trên các chiến trường, làm rạng danh nền đế
chế ?
- Ta giết bá tước P. vì tương lai của ta – Napôlêông thèn lẹn phô bày không chút giấu giếm.
Khuya đến, trong tư đinh, em trai Napôlêông cất lời trách móc :
- Hiền huynh ơi, sao anh lại giết hại bá tước P. – người mà cả nước Pháp ai cũng kính trọng ?
Hai tay buông xuội lơ, Napôlêông thở dài não nề :
- Ôi ! Ta đã giết lầm !
Cùng một một câu hỏi có đến ba cách trả lời hoàn toàn khác nhau phát
ra từ miệng một người! Các sử gia Pháp thời đó đã đuổi theo ba hướng
chép thành ba quyển sách khác nhau về một biến cố làm rối rắm hậu thế.
Đâu là sự thật ? Sự thật nằm ở câu trả lời thứ ba mà động lực ở câu
trả lời thứ hai, còn sự dối trá lại nằm ở câu trả lời thứ nhất. Dối trá
chỉ là sự thật bị nhầm lẫn về ngày tháng. Sự thật thường gây ra những
rạn nứt, còn sự dối trá thì luôn luôn sản sinh ra những đổ vỡ.
Chân lý ở đây bị che mờ bởi sự giả trá làm ra vẻ chân lý !
*
Phụ chánh đại thần Trần Tiễn Thành là một người trung nghĩa, có nhân
cách, có tài. Thế mà nhân vật đặc sắc này đã được Đài Truyền hình Thành
phố Hồ Chí Minh một dạo bêu ông lên màn hình như một gã lưu manh tàn
ác, bạo dâm, giết chồng đoạt vợ (?!) . Ông được tác giả cải tên thành
Trần Tiến Thành (Ôi, cái tên còn chép sai thì nói gì đến những chuyện
khác). Tôi ngồi coi, máu bốc dồn lên mặt, phải tắt tivi, ngồi lặng
trong bóng tối, có cảm giác lạnh tanh như thấy người ta đang âm mưu một
cuốc thảm sát chính trị mới mà động lực chủ yếu là để báo oán cá nhân
(?!)
Sự thật là Tiến sĩ Trần Tiễn Thành đã bị phái chủ chiến Tôn Thất
Thuyết ám sát năm 1883. Ngày nay, dưới ánh sáng chói lòa của các sử liệu
đầy ắp như Đại Nam liệt truyện (chữ Hán), Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam thực lục chính biên (chữ Hán), đặc biệt bài Ngài Trần Tiễn Thành (chữ Pháp) của Đào Duy Anh đăng trên tập san Đô thành hiếu cổ
1944 thì rõ trắng đen. Xin tác giả vở tuồng hãy để ông Nghè được yên
nghỉ, ngưng tay đừng sát hại đấng lương thần này một lần nữa !
Chân lý ở đây nằm trong sự báo oán bởi do kém đức và định kiến !
*
Vua Càn Long nhà Thanh luôn luôn có tinh thần cảnh giác, đề phòng
người Hán phản loạn. Ngoài những phương sách chính trị, quân sự, ông còn
để ý đến văn chương. Bản thân ông cũng thích thơ văn, ưa sáng tác. Ông
biết bọn văn sĩ “phản động” thường có dụng ý khéo léo gài tư tưởng chống
đối vào câu vào chữ.
Thẩm Quý Ngu là một nhà thơ nổi tiếng đương thời. Vua Càn Long thường
đọc thơ của Thẩm Quý Ngu, đối đãi với nhà thơ bằng con mắt trọng thị.
Vua cũng có lần đưa những bài thơ “ngự chế” của mình nhờ ông sửa chữa.
Song nhà vua vẫn để ý theo dõi.
Khi Thẩm Quý Ngu qua đời, nhà vua còn ban cho một đặc ân hiếm có là
ngài thân hành ngự giá đến viếng mộ nhà thơ. Tiện dị, vua hỏi han các
con cháu xem ông cụ còn để lại di cảo gì. Bọn con cháu của Thẩm Quý Ngu,
chẳng biết bao lăm chữ nghĩa, nghe vua hỏi thì chỉ thấy vinh dự, liền
đệ trình cho vua tất cả trước tác của cha ông, chẳng lưu tâm gì đến
chuyện phạm húy hay phạm thương.
Càn Long dành thời gian đọc hết cả các di cảo của Thẩm Quý Ngu. Bỗng
vua đưa ra một phán quyết bất ngờ, làm kinh hoàng cả giới kẻ sĩ : quật
mồ, phá bia, kéo thây trong áo quan ra chém đầu răn chúng ! Tất cả con
cháu họ Thẩm, trừ một em bé 5 tuổi, còn thì nhất loạt sung quân, đày đi
Hắc Long Giang.
Thì ra, trong số thơ văn để lại, nhà vua đọc được bài thơ Vịnh hoa mẫu đơn đen. Bài có hai câu :
Đoạt chu phi chính sắc
Dị chủng diệc xưng vương
Nghĩa đen rất rõ ràng và có thể nói là tài tình. Hoa mẫu đơn vốn màu
đỏ, nay nó lại có màu đen, vậy là một chủng loại hoa khác, thế mà nó
cũng là vua các loài hoa !
Đọc hai câu thơ, Càn Long lại hiểu ra một ý khác. “Đoạt Chu” có nghĩa là cướp ngôi nhà Chu (tức là nhà Minh, vì thủy tổ nhà Minh là Chu Nguyên Chương). “Dị chủng”
có nghĩa là giống quái lạ. Có thể hiểu đây là giống nòi Mãn Thanh, một
tộc man khác chứ không phải giống nòi nhà Hán. Hiểu như thế thì rõ ràng
câu thơ không còn là ám chỉ nữa, mà nói toạc ra rằng giống người quái lạ
khác với người Hán mà cũng lên ngôi vua, vì đã cướp ngôi nhà Minh,
không phải triều đại chính thống !
Nói thẳng thừng như vậy là một sự lăng mạ. Nhà vua tất nhiên thấy nhục nhã, nên thẳng tay trả thù. (Theo THANH CUNG BÍ SỬ)
Đó là chuyện bên Tàu xa xưa, còn bên ta thời hiện đại cũng có chuyện tương tự:
Nhà thơ Hoàng Cầm vướng vào vụ Nhân văn Giai phẩm nên bị
treo bút. Nhưng là nhà thơ thì làm sao cấm bút được. Ông viết lén lút và
chỉ để cho mình xem. Ông gom nó thành tập đặt tên là Mưa Thuận Thành
và nóng lòng muốn in tập thơ. Do mối lái với ai đó, giáo sư Nguyễn Mạnh
Hùng ở Canađa thương tình nhận bỏ tiền in giùm cho nhà thơ. Ông mừng
quá, nhờ nhà thơ Hoàng Hưng khi đó đang làm phóng viên thường trú ở Hà
Nội chuyển giúp vào Sài Gòn, để từ đó chuyển ra nước ngoài. Chuyện bị lộ
ra, Hoàng Hưng bị bắt tại trận với bản thảo viết tay của Hoàng Cầm, bìa
của Minh Đức. Khi các “chuyên gia” văn học của cục An ninh dùng kính
lúp soi vào từng câu chữ theo kiểu Càn Long xét nét thơ Thẩm Quý Ngu thì
Mưa Thuận Thành lại là tập thơ bóng gió chống Đảng nấp dưới bóng dáng tình yêu quê hương đất nước. Người ta chụp cho Hoàng Cầm cái tội: bọn Nhân văn Giai phẩm
ngóc đầu dậy ! Thế là nhà thơ lớn Tố Hữu với cương vị là ủy viên BCT,
Trưởng ban tuyên giáo TW tống nhà thơ bé Hoàng Cầm vào ngục thất Hỏa Lò
với 16 tháng tù giam, cùng nhà thơ Hoàng Hưng là tòng phạm nguy hiểm
ngồi bóc lịch với 39 tháng tù giam không xét xử !
Đến năm 1991, khi mở cửa đổi mới, các văn nghệ sĩ được cởi trói (chữ của TBT Nguyễn Văn Linh), tập thơ Mưa Thuận Thành được xuất bản, công chúng hoan nghênh, tán thưởng là tập thơ hay. Năm 2007, Hoàng Cầm được người ta phong tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật, trong đó có Mưa Thuận Thành. Thật khốn khổ cho nhà thơ đa tài, suốt đời lận đận với nhiều cay đắng, oan khuất.
Sống trong thời buổi rối ren, chúng ta quá quen với sự lừa dối hào
nhoáng. Cái giả không thể đương đầu lâu được với sự thật. Một lỗi lầm
một lần phủ nhận là hai lầm phạm tội. Phải nhìn hai lần để thấy Đúng, nhưng chỉ cần nhìn một lần để thấy Đẹp.
Chân lý ở đây nằm trong sự chạm nọc của vua chúa.
*
Hoàng Phan Xước là viên quan thị thần chầu chực bên cạnh Đường Minh
hoàng. Khi An Lộc Sơn nổi loạn cướp ngôi, Đường Minh hoàng bỏ chạy.
Những người hầu hạ nhà vua cũng phiêu bạt nhiều nơi. Một số bị An Lộc
Sơn bắt được, trong đó có Hoàng Phan Xước. Số này vừa sợ chết, vừa bị ép
buộc phải cung phụng chủ mới.
Ít lâu sau, nhà Đường khôi phục được cơ đồ. An Lộc Sơn bị giết chết.
Bọn quan lại đầu hàng trước kia phải ra thú tội, bị Đường Minh hoàng
trừng phạt nặng nề. Những người không ưa Hoàng Phan Xước tố cáo với nhà
vua :
- Phan Xước không phải là người trung nghĩa gì. Y đã nịnh nọt
An Lộc Sơn để y được cầu yên, cầu lộc. Có lần An Lộc Sơn nằm mơ thấy
bao nhiêu giấy dán cửa sổ đều bị bong ra, Phan Xước nịch rằng : đó là
điềm báo ánh sáng của chúa thượng chiếu rọi khắp nơi. Lần thứ hai, An
Lộc Sơn mơ thấy tay áo dài ra, che kín cả bàn tay, Phan Xước lại nịnh
rằng : đó là điềm rủ tay áo ngồi mà trị thiên hạ. Như vậy, y là một tên
xiểm nịnh hèn hạ, phải nên giết đi.
Đường Minh Hoàng hỏi lại Hoàng Phan Xước :
- Ngươi có nói như vậy không ?
- Tâu bệ hạ, có ! Thần có nói như vậy !
Cả vua và triều đình đều rất ngạc nhiên. Họ nhìn cả vào mặt ông ta. Hoàng Phan Xước ung dung nói tiếp:
- Tâu bệ hạ. Khi nghe kể chuyện, thần đã thấy ngay là hai
giấc mộng rất xấu. Nhưng nói thực thì An Lộc Sơn sẽ đề phòng và giết hạ,
không cho hạ thần thấy được mặt rồng của bệ hạ hôm nay. Chỉ bằng khéo
léo ru y ngủ, chờ đến ngày y đại bại.
Vua hỏi :
– Vì sao hai giấc mộng lại đều xấu mà An Lộc Sơn tất đại bại ?
– Muôn tâu, dễ hiểu lắm. Giấy dán chặt là nhờ có hồ, nay bong
ra là hồ bị hỏng. An Lộc Sơn là rợ hồ, hồ hỏng thì còn gì nữa. Còn tay
áo mà lụng thụng thì múa may, quay cuồng làm sao được, chỉ chờ bị trói
mà thôi. Vậy hai giấc mộng ấy là điềm trời báo trước rằng An Lọc Sơn tất
chết !
Đường Minh hoàng nghe ra thích chí cười ầm lên, lập tức tha tội cho
Hoàng Phan Xước, lại cho làm thị thần như cũ. (Theo TUỲ ĐƯỜNG).
Chân lý ở đây nằm giữa cái lưỡi dẻo quẹo có tài ngụy biện của bọn ba phải !
*
Việc xẩy ra sau đại hội XXII của Đảng Cộng sản Liên Xô. Hồi đó đang sôi nổi diễn ra chiến dịch phi Xtalin hóa.
Thi hài ước của Xtalin bị đưa ra khỏi lăng. Trên khắp nước Liên Xô
người ta nhất loạt hạ tượng ông, đổi tên thành phố, nhà máy, công
trường… Những ấn phảm được chuẩn bị đưa in giờ phải rà soát lại một cách
nghiêm ngặt để xem trong đó có những môtíp sùng bái không. Trong lúc
Nhà xuất bản Văn Học đã cho tái bản nhiều lần cuốn truyện vừa Trong chiến hào Xtalingrat
của nhà văn V. Nekrasop – một thiên anh hùng ca về trận đánh lịch sử
trên bờ sông Vonga. Bị thôi thúc bởi những chỉ thị từ trên dội xuống,
Ban lãnh đạo Nhà xuất bản phát hiện thấy rằng trong tác phẩm này có nhắc
đến Xtalin, đề nghị tác giả bỏ chỗ ấy đi và thay thế cái tên gọi, bởi
vì Xtalingrat không còn nữa, mà chỉ có Vongagrat. Nhưng thật bất ngờ đối
với họ vì Nekrasop đã từ chối yêu cầu sửa chữa. Trong bức thư gửi Ban
biên tâp Nhà xuất bải, ông viết :
“Hôm nay, Ban biên tập báo cho tôi biết rằng cần phải tước bỏ khỏi cuốn truyện vừa Trong chiến hào Xtalingrat
tất cả những chỗ có nhắc đến Xtalin. Những chỗ này không nhiều, thực ra
chỉ có chỗ ở trang 190-191. Nhân đây, tôi cũng không thể không nhắc lại
rằng mười năm về trước, Nhà xuất bàn Nhà văn Xô viết đã yêu cầu đưa
thêm một chương viết vế Xtalin vào cuối truyện này. Hồi đó, tôi đã từ
chối làm việc ấy. Bây giờ người ta lại yêu cầu tôi làm ngược lại, nhưng
lần này tôi cũng không thể đáp ứng được. Tôi không muốn phạm tội chống
lại sự thật lịch sử. Cái gì đã có thì vẫn còn đó”…
Và, tất nhiên do thái độ “ngang bướng” này, nhà văn Nekrasop đã bị
trù dập bằng nhiều biện pháp tinh vi. Song điều đó chỉ làm nổi bật lên
bản lĩnh và nhân cách của người cầm bút. (Theo tài liệu của LÊ SƠN).
Sự dối trá không những mâu thuẫn với sự thật mà còn mâu thuẫn với
chính nó và mâu thuẫn lẫn nhau. Bên phải của mình là bên trái của người.
Sự chống đối là cách trở về từ cái Giả đến cái Thật. Con người thường
kháng cự lại quyết liệt khi sự giả trá chống lại họ.
Chân lý ở đây nằm trong lập trường kiên định của nhà văn !
*
Di Tử Hà là bề tôi yêu của Vệ Linh công. Vua tôi họ là một cặp tương đắc, lúc nào cũng quấn quýt như hình với bóng.
Theo pháp luật của nước Vệ, ai tự tiện đi xe của nhà vua sẽ bị tội
chặt chân. Mẹ Di Tử Hà ngả bệnh nặng, có người đang đêm cấp báo tin dữ,
ông nhảy lên xe vua phóng về thăm mẹ.
Nhà vua nghe tin cho là người hiền, nói:
- Thực là một người đại hiếu ! Vì mẹ mà sẵn sàng phạm tội chặt chân.
Hôm khác. Di Tử Hà đi chơi với vua trong vườn quả. Di Tử Hà ăn quả đào thấy ngon quá, dâng vua. Nhà vua cầm ăn ngon lành, nói :
- Anh ta thật yêu ta ! Quên cái miệng không nỡ hưởng một mình mà san sẻ ngọt bùi cho ta. Máu thịt nào bằng !
Về sau, Di Tử Hà bị thất sủng, lòng vua yêu đổi màu, lại phạm tội. Nhà vua hạch :
- Nó lếu láo khinh nhờn phép nước léo mảy lên xe của trẫm
đi, lại có lần nhét vao mồm trẫm bắt ăn trái đào thừa của hắn. Thật là
quá quắt khi quân phạm thượng.
Cùng là một sự việc do cùng một người đánh giá, ở hai thời điểm khác nhau ra hai cực tốt xầu khác nhau.
Tư Mã Thiên nhắc lại chuyện Hàn Phi tử kể trong chương Thuyết nan nhằm cảnh tỉnh các kẻ sĩ đi du thuyết không thể không xét đến chỗ nhà vua yêu và ghét cái gì, rồi sau đó mới thuyết phục.
Chân lý ở đây tùy thuộc vào yêu và ghét “Ưa dưa thơm, không ưa dưa thối” !
*
Vào những năm cuối của tập kỷ 80 thế kỷ trước, Tạp chí Văn Nghệ Quân đội
kéo cả dàn phóng viên xuống Hải Phòng, dành trọn cả cuốn tạp chí tháng
ấy để viết về phong trào luyện quân và làm giàu của quân khu miền biển,
trong đó Tư lệnh Trường Xuân được xem như là linh hồn của phong trào. Tờ
báo phát hành chưa được bao lâu, đùng một cái, Thiếu tướng Trường Xuân
bị lôi ra trước tòa lãnh án chung thân, sau rút xuống 20 năm vì được ân
giảm bởi công trừ tội. Vị tư lệnh này có công hay có tội ? Anh hùng hay
tướng cướp ? Các nhà văn là thư ký của thời đại hẳn không thể không
sáng suốt thấu hiểu bản chất con người ? Còn tòa án, dĩ nhiên pháp đình
có cái công minh của người cầm cân công lý ? Ai đúng, ai sai ? Cứ là
bàng hoàng như người từ trên cung trăng rơi xuống.
Chân lý ở đây được nhìn nhận từ quyền lợi cục bộ của các đối tượng thẩm xét !
*
Cho đến tận bây giờ, các sách lịch sứ, truyện, kịch bản sân khấu đều
chép chồng bà Trưng trắc tên là Thi Sách ! Các dịch giả sách Việt sử thông giám cương mục chú rằng “Trong Thủy Kinh chú, quyển 37 tờ 62 chép chồng bà Trưng Trắc là Thi…” Chữ “sách” có nghĩa là: hỏi, dạm, lấy. Sách Hậu Hán thư là văn bản cổ nhất chép thế này, nguyên văn “Con trai lạc tướng Châu Diên là Thi sách (lấy) con gái lạc tướng Mê Linh là Trưng Trắc”. Sự lầm lỗi này cần phải đính chính lại. Ông ấy tên là Thi thôi.
Những cái sai tương tự như thế, ta có thể dẫn ra vô thiên lủng :
Tên tuổi của Lưỡng quốc Trạng Nguyên Mạc Đỉnh Chi, cho đến nay vẫn tồn tại cách viết là Mạc Đĩnh Chi. Đỉnh là cái vạc – tượng trưng cho sự phú quý, trong câu “Miếng chung đỉnh mất rồi lại có” (Nguyễn Gia Thiều). Chi: vun bón, chăm sóc, ủng hộ cho cái vạc chứa đầy của cải. Đỉnh chứ không phải là đĩnh (thoi bạc); Chi (có bộ tài gãy đặt trước chữ chi là cành) không phải chi vật lượng từ trong văn ngôn (Hán cổ), tương đương với chữ đích (tưa âm Bắc Kinh) trong Hán ngữ. Các nhà Hán Nôm Việt Nam cũng viết sai nốt chữ Chi này khi chuyển sang Hán tự.
Lại nữa, tên Nho sĩ Lương Nhữ Hộc được viết thành Lương Như Học chình ình trên bảng hiệu tên đường ở quận Năm. Tên Ngự sử đời Trần Đoàn Nhữ Hài viết trên bảng tên đường Đoàn Như Hài ở quận Tư, Tp Hồ Chí Minh là những tên tuổi mà các vị hữu trách cần phải sửa ngay, không nên làm ngơ mãi.
Một người viết sai, cả nước, đời này qua đời nọ đọc sai là vậy.
Chân lý bị sai dây chuyền bởi người khởi xướng sai lầm.
*
Các nhà văn ăn giải Nobel của Nga, trừ Sôlôkhốp, còn lại như Xon
Giênhítxư, Patexnắc, Brốtxky, Bunhin… đều bị tổ quốc lăng nhục, bị bức
tử, xua đuổi, sống vất vưởng lưu vong. Và rồi, Tổ quốc lại dang rộng
cánh tay đón rước họ vào lòng. Rốt cuộc, những người con ưu tú ấyđã làm
rạng danh cho Tổ quốc và họ đã trở thành những vị thánh. Trong lĩnh vực
văn hóa, khi những ấn phẩm bị chính quyền vật mình vật mẩy liệng vào sọt
rác thì đó là tín hiệu bảo rằng: tác phẩm ấy ít nhiều có giá trị !
Những cây bút có lương tri xưa nay đều đối trọng với chính quyền như một
sự phản biện xã hội tất yếu khi chính quyền đó không còn là của Nhân
Dân nữa. Nhà văn chân chính chỉ có một quyền lựa chọn duy nhất là đứng
về phe Con Người, phe nước mắt để chiến đấu cho quyền lợi thiết thân của
họ.
Ở ta, khi tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo
Ninh ra đời, người ta xúm lại đánh hội đồng quyết liệt, mở thành chiến
dịch rầm rộ ồn ã chưa từng thấy. Đánh vì sao ? Có gì đâu, vì Bảo Ninh
trật đường ray, lạc loài không đi theo dòng văn học phải đạo. Bảo Ninh
viết bằng nhân bản: nhìn nhận cuộc chiến tranh này từ cả hai phía của
người trong cuộc.
Khi những cuộc đấu đá dịu xuống, thời gian lắng lại, gần như hầu hết
tiểu thuyết thời chống Mỹ với lối viết minh họa được định hướng bằng
phương pháp sáng tác chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa đều vô mây
khói, thì duy nhất, quyển của Bảo Ninh được xếp vào loại tinh hoa của
văn học thế giới.
Xem đấy, những kẻ to mồm nhất giờ chắc ngượng lắm !
Chân lý ở đây nằm trong trò đố kỵ tài năng và những cuộc thanh trừng phe phái thảm khốc.
*
Ở xứ ta, thời nay mấy ông gộc Nhân văn Giai phẩm Trần Dần,
Lê Đạt, Phùng Quán, Hoàng Cầm (năm 1957) bị hành cho sống đọa thác đày,
giờ (năm 2007) lại ăn giải Giải Văn học Nghệ thuật Nhà nước ! Trước
thì, họ là những tên phản Đảng, chống lại dân tộc. Nay thì, những tên
tuổi ấy làm rạng danh nền văn học nước nhà. Ha ha…
Ngẫm xem, cuộc đời này hay thật : thơm rồi lại thối, thối rồi lại thơm ! y như câu đối Thần Siêu khóc Thánh Quát khi ông này lâm hình vậy : Hỗn trần lưu xú diệc lưu phương !
Chân lý ở đây nhằm vào chỗ khi nhà cầm quyền buồn hay vui !
*
Một điều rất lạ ở nước ta, hội Văn nghệ tỉnh nào cũng có quyền mở
khoa thi thơ, truyện ngắn và đều tuyên bố lấy… “trạng nguyên”, “bảng
nhãn”, “thám hoa”. Trong nhà trường, tôi thấy trường nào cũng may áo
thụng, mũ tiến sĩ để tặng các học sinh giỏi bất cứ cấp lớp nào vào đại
học hay phổ thông, lại còn phân ngành cụ thể hơn nữa: trạng nguyên hóa,
trạng nguyên toán, trạng nguyên Anh văn… long trong đến mức phơi cả trên
ti vi nữa kia làm cho học vị trạng nguyên hiếm hoi vốn chỉ cả nước dành
cho một ông ở khoa thi đình nguyên, trở nên rẻ rúng như bèo.
Chân lý loạn trạng nguyên là do không hiểu biết và óc cát cứ của các sứ quân văn hóa đẻ ra !
*
Trong các giải thưởng văn học hiện đã công bố trong vòng ba thập kỷ
lại đây ở xứ ta, tôi theo dõi thấy có sự thật đáng buồn này: những tác
phẩm ăn giải cao, tác giả vừa ẵm giải xong bước xuống đài thì bỗng lăn
đùng ra chết tươi, trong khi những tác phẩm không được giải lại được bạn
đọc chuyền tay nhau, đọc chép, bình phẩm. Học vấn và gu thẩm mỹ của
công chúng với các thầy giám khảo có gì vênh nhau chăng ?
Ở đây, chân lý bị cân đo, đong, đếm, xếp hạng bằng cái ngoài nghệ thuật !
*
Trên đời, hiếm có một tình bạn tri âm nào như Phương Đình Nguyễn Văn
Siêu và Chu Thần Cao Bá Quát. Có lần ông Cao đã đùa là nếu thiên hạ có
ba bồ văn thì họ đã chiếm mất hai phần.
Khi nghe tin dữ hai anh em sinh đôi cùng sinh cùng tử một ngày: Bá
Quát tham gia làm quân sư cho cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương chống lại triều
đình tử trận, Bá Đạt làm tri huyện Nông Cống, Thanh Hóa liên lụy bị bắt,
cắn lưỡi tự tử trong cũi trên đường giải về kinh, Phương Đình đau đớn
rụng rời khóc thương bạn bằng một đôi câu đối, trong đó có một vế thất
kinh động như sấm ý: “Hỗn trần lưu xú diệc lưu phương” (Giữa cõi đời lộn xộn này [hành vi của ông] vừa thối vừa thơm).
Vừa thối vừa thơm ! Sao kỳ quá ta ? Thật khó hiểu. Thối thì
rõ:Chu Thần chống lại vua Tự Đức rành rành là một ngịch thần tặc tử,
thối quá đi chứ, chấp nhận sao được ! Còn thơm ở chỗ mô ? Phải đợi đến
một trăm năm sau, Cao nghiễm nhiên trở thành anh hùng chống độc tài thì
mới thấy rằng thơm thật là thơm !
Nhãn quan chính trị và tấm lòng thế thái nhân tinh của kẻ sĩ Phương Đình xuyên suốt 6 cõi 4 hướng.
Chân lý ở đây nằm trong tầm chiến lược của bộc thực giả.
&
Từ cái định đế thối rồi lại thơm của Phương Đình ta
có thể suy ra thiên biến vạn hoá trong cuộc sống. Hết thảy mọi cái đều
chứa hai mặt như chiếc mề đay. Mặt trong và mặt ngoài là hai phương
trời hoàn toàn xa lạ.
Cái ta tưởng là thật thì nó lại giả, cái ta tưởng giả thì nó lại là thật.
Các bạn ngồi nghe tôi phiếm đàm chuyện xưa – nay, ta – người, gần – xa…
chắc cũng như tôi không khỏi hoang mang. Phải, chân lý là sự thật. Nàng
là một trinh nữ yếu đuối luôn bị lũ đàn ông khốn nạn cưỡng hiếp đẻ ra
những quái thái. Thật – giả đã bị đời chơi trò ú tim đánh tráo,
ăn cắp, thủ tiêu, xếp sòng lộn tùng phèo. Ở đời, làm gì có chân lý nhỉ ?
mặc dù thánh ganđi bảo “Một chân lý bao giờ cũng là chân lý dù bị tất
cả thiên hạ đả đảo. Một sai lầm vẫn là sai lầm dù được tất cả thiên hạ
hoan nghênh”. Còn Macket – tác giả của Trăm năm cô đơn lại cho
rằng “Chân lý là chân lý, nhưng có cái ngược lại với chân lý cũng không
kém chân lý”. Thường thì, trong thời buổi đồ đểu lên ngôi, chân lý luôn
nằm trong tay kẻ mạnh, trong sự thao túng ngang ngược của đồng tiền,
trong sự ngộ nhận đớn hèn của những đầu óc u mê… Lửa to dập tắt lửa nhỏ.
Chân lý là mặt trời có thể bị mây che trong chốc lát. Nhưng dần dần tất
cả đều trôi qua, chỉ riêng chân lý ở lại. Trách chi người Ăng lê họ
sống và hoài nghi tất cả. Đức tin không nghi ngờ là đức tin chết, sự hoài nghi là khởi điểm của mọi học thuật.
Lẽ phải bao gồm sự thật không nói ra và sự thật cần im lặng. Chúng ta
hãy nghe Thiền sư Nhật Bản Zengetsu từ thế kỷ thứ XIII răn dạy đệ tử:
“Một vài điều – mặc dù đúng – vẫn được coi là sai trong nhiều thế hệ.
Bởi vì giá trị chân chính có thể được nhận ra sau nhiều thế kỷ. Con
không nên cần thèm khát sự đánh giá nhất thời”. Ôi, thế này thì chân lý
chỉ có thể nở hoa trên mộ? Còn đức Phật tổ Thích Ca Mầu Ni lại truyền
rằng “Ta nghe những lời phán quyết của đúng và sai là cái uốn mình nhảy
múa của con rồng, và sự lên xuống của đức tin là dấu vết của bốn mùa để
lại”. Thật là chí lý. Nhưng đó là cách hành xử của người có đạo, còn
chúng ta – người ngoài đạo, ôm cây đợi thỏ, chờ cho hết kiếp còn gì là
thân? Con người tìm kiếm chân lý là để phục vụ cuộc sống trước mắt. Phải
cho sự thật mặc áo thôi. Phải hiến thân giữ lấy lẽ phải để tồn tại.
Sau bao nhiêu năm tìm kiếm ở ngoài đời, tôi đành buông thõng hai tay
đầu hàng, không tài nào lý giải nổi. Nhưng tôi quyết không thua, liền
tìm một cứu cánh khác trong sách (lại sách).
Tôi lật một đống đại từ điển to như mả tổ là Từ hải, Từ nguyên của Tàu, Larousse của Pháp, Từ điển triết học, Từ điển bách khoa của Nga liền chiết ngay ra được những lý giải rất kinh viện, uyên bác.
- Thế nào là chân lý ? Tôi cứ lầm rầm như thằng điên.
Thấy tôi đào bới trì trật, đổ mồ hôi trán rán mồ hôi lưng như một anh
dân quê cày ruộng, bởi vốn chữ Tàu ba nắm, chữ Tây vài vốc lõm đõm của
tôi. Những lúc tra cứu vất vả như thế này, ai trông cũng phải thương
tâm. Một nhà thơ đang ở chơi nhà cười cười, bảo :
- Ông học thật ơi, chân lý là cái lý có chân ! Ngài thử ngẫm xem nào ?
- Ối ! Ơrica (tìm ra rồi). Thật là chí lý.
Giống như nhà vật lý Ácsimét, tôi hóa rồ reo lên. Đây quả là định
nghĩa tuyệt vời nhất về chân lý. Tôi ôm choàng lấy nhà thơ thơm đánh
chụt một cái rõ kêu vào bầu má còn úng sữa của chú chàng.
Chân lý là cái lý có chân ! Phải rồi, có chân thì nó biết
đi. Biết đi thì nó biết nhiều chuyện. Biết nhiều chuyện thì nó hay cãi
lộn. Hay cãi lộn thì ra cái lý. Từ nguyên lý sặc mùi dân gian rất uyển
chuyển này, ta sẽ làm cái chìa khóa vạn năng để mở bất cứ ổ khóa nào bấy
lâu im ỉm đóng để đi vào khám phá những bí ẩn làm đầu ta cứ u u minh
minh.
Chúng ta đang sống trong một thế giới ồn ào và bụi bặm. Giữa cái nhá
nhem của lịch sử, mọi vật đều chới với trong ảo giác: đen - trắng lẫn
lộn, thật – giả bất phân, thiện – ác đối đầu, ông – thằng đổi ngôi. Nhận
chân ra được sự thật không phải dễ dàng. Làm sao để phân biệt chúng
không phải là không làm được. Lương tri lương năng của Con Người
sẽ mách bảo cho chúng ta minh định được chánh tà, đúng sai, tốt xấu,
miễn là còn tỉnh táo đừng ăn phải cháo lú. Ai không biết sự thật là
người mất trí, ai biết sự thật mà lại lờ đi nói đó là giả dối thì đấy là
một tên vô lại. Thời loạn, bất cứ việc gì, giả cũng rất dễ trở thành chân.
Biện pháp tốt nhất là rửa sạch đầu óc bằng Sự Thật. Đối với chân lý chớ
nên lãnh đạm, đối với sự giả dối chớ vồ vập, vo ve. Ở đâu mà nghe nặng
lời thề thốt, bốc thơm thì hãy nghĩ về cái xấu.
Sự thật có cả năng đương đầu với mọi bất công. Máu không dìm chết
được chân lý. Chân lý phải được chấp nhận không cần bạo lực. Mọi bạo
lực đều không làm suy yếu được chân lý mà làm cho nó cất cánh bay xa
hơn. Dối trá đi một chân, sự thật đi hai chân. Sức mạnh của chân lý là
lẽ sống trường cửu. Sự thật là niềm yên tĩnh của trái tim. Chân lý cần
được xem như Tổ quốc của mình.
Sự thật khó tìm. Sự cách biệt giữa thật và giả chỉ ở trong chân tơ kẽ
tóc. Một nghìn lời đồn đại cũng chưa phải là sự thật. Bởi vì “Dư luận
là chúa ở trên đời đến nỗi khi lẽ phải muốn đánh đổ nó thì phải lãnh án
tử hình” (Vonter). Và, nếu phải đầu hàng lẽ phải thì không thể xem là
bại trận.
Tìm kiếm chân lý: lấy tai làm mắt chẳng hay đâu. Lý trí, thói quen,
linh cảm, đó là ba cách tin. Thật quái gở cho một ai đó đi tới chân lý
bằng con đường phạm tội. Sự thật thường bị che lấp nhưng không bao giờ
bị dập tắt. Tìm ra chân lý khó hơn phát hiện sai lầm bởi chân lý nằm bất
động dưới đáy còn sai lầm nổi trên mặt nước.
Chân lý dù bị chà đạp xuống tận bùn đen nó vẫn trỗi dậy. Sự thật sẽ
chiến thắng nhưng cần giúp đỡ sự thật. Con người phải trải qua vô vàn
sai lầm mới đến được chân lý. Cặp mắt sẽ không nhìn sai nếu lẽ phải điều
khiển họ. Tìm kiếm chân lý không phải ở óc mà cả bằng tim nữa. Hãy tin
rồi sẽ hiểu. Đức tin đi trước, trí tuệ theo sau. Khám phá ra chân lý là
để sống với chân lý.
Trên con đường gập ghềnh xa kiếm tìm chân lý, biết bao người đã xả
thân vì nó. Nhờ tìm chân lý mà con người gia tăng sức mạnh và hoàn thiện
được bản thân mình. Chân lý là thượng đế của người tự do.
Hãy can đảm nhìn vào sự thật. Chân lý đang cai trị thực tế. Lẽ phải là người chỉ dẫn và ánh sáng của cuộc đời.
Chân lý nằm trong cái trung dung. Thời gian mới là sự hóa giải đích thực và hiệu nghiệm.
Chân lý là cái lý có chân ! Nó biết đi… trời ơi
Chân lý vạn tuế.
Vạn vạn tuế chân lý !!!
Viết tại Chợ Lớn 1991-1996 – Quận 2, Sài Gòn, 2011
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét